Trải dài hơn 3.260 km bờ biển, Việt Nam có vùng biển lớn đứng thứ 27 trong 157 quốc gia ven biển và các quốc đảo. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, diện tích biển của nước ta chiếm khoảng 30% diện tích Biển Đông và được công nhận là một trong những vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên, địa chính trị quan trọng ở khu vực và thế giới. Vùng bờ của Việt Nam được quy định trong Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo bao gồm vùng nước biển ven bờ có ranh giới phía ngoài cách bờ biển khoảng 06 hải lý và vùng đất ven biển là các xã, phường, thị trấn giáp biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển. Biển Việt Nam tương đối giàu tài nguyên, các giá trị văn hóa - lịch sử; là nơi tập trung nhiều ngành kinh tế trọng điểm của quốc gia; vùng ven biển có mật độ tập trung đông dân cư nhất cả nước. Theo Niên giám thống kê Việt Nam năm 2018, dân số của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển là khoảng 47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số của cả nước.
Thực trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam hiện nay
Sau công cuộc Đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn ở nhiều lĩnh vực. Trong đó có tăng trưởng kinh tế vượt bậc, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên song song với quá trình phát triển ấy cũng tạo ra nhiều vấn đề bất cập đối với môi trường và hệ sinh thái. Cụ thể như sau:
Thực trạng ô nhiễm môi trường nước
Theo thống kê từ Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm nước ta có khoảng 9.000 người tử vong do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Trong đó có hơn 200.000 trường hợp phát hiện là do ung thư mà nguyên nhân là do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm. Hiện nay vẫn còn 20% hộ dân cả nước sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm từ ao, hồ, kênh, rạch để sinh hoạt.
Tại hai thành phố lớn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đa phần nước thải sinh hoạt không được xử lý mà xả trực tiếp ra kênh, rạch sau đó chảy ra các con sông lớn là sông Hồng và sông Đồng Nai – Sài Gòn.
Bên cạnh đó, mức độ ô nhiễm nguồn nước từ các khu công nghiệp là rất đáng kể, chẳng hạn như tại cụm công nghiệp Tham Lương, TP. HCM, ước tính mỗi ngày có đến 500.000 m3/ngày tổng lượng nước thải từ các nhà máy dệt nhuộm, sản xuất bột giặt, sản xuất giấy, ….
Tại các vùng nông thôn, việc lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu cũng là tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước. Lượng chất hóa học ngấm vào đất, gây ô nhiễm mạch nước ngầm.
Thực trạng ô nhiễm môi trường đất
Đất là nguồn tài nguyên quý giá và là nơi trú ngụ của con người và các động thực vật sống trên cạn. Hiện nay, môi trường đất đang bị ô nhiễm nghiêm trọng khi chất lượng đất ngày ngày đi xuống, tình trạng suy thoái ngày càng phức tạp. Tính chất và thành phần của đất bị thay đổi, đất bị chai cứng, nhiễm mặn, nhiễm phèn, đất dư thừa muối, bị xuống cấp về mặt sinh học (thiếu hụt chất hữu cơ khiến đất bị nghèo nàn, giảm bớt khả năng hấp thu và cung cấp nitơ cho sinh vật).
Các nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất ở nước ta phải kể đến là do chất thải công nghiệp (sản xuất hóa chất,các loại nhựa, chất dẻo,…), chất thải sinh hoạt (xả phân, rác vào môi trường đất), nước thải xả ra cống rãnh, đồng ruộng, thấm vào đất gây ô nhiễm đất, chất thải nông nghiệp (phân, nước tiểu của động vật, nhất là ở các trang trại chăn nuôi).
Ngoài ra, các hoạt động khai thác khoáng sản cũng là tác nhân gây ô nhiễm môi trường đất. Điển hình là tại các khu vực thường xuyên khai thác khoáng sản của tỉnh Thái Nguyên, tình trạng ô nhiễm môi trường đất gây ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe của người dân do hoạt động khai thác khoáng sản sử dụng công nghệ truyền thống, lạc hậu.
Thực trạng ô nhiễm môi trường không khí
Ô nhiễm môi trường không khí là một trong những vấn đề nhức nhối đối với thế giới và nước ta cũng không ngoại lệ. Theo Báo cáo thường niên về chỉ số môi trường (EPI) (được thực hiện bởi Tổ chức Môi trường Mỹ) nước ta đang nằm trong top 10 quốc gia có chỉ số ô nhiễm không khí API cao nhất ở khu vực châu Á.
Nước ta là quốc gia xếp thứ 36 trong tổng số 177 quốc gia có mức độ ô nhiễm không khí cao nhất trên toàn thế giới. Theo các số liệu thống kê của Iqair, nồng độ bụi mịn của Việt Nam vượt quá 4,9 lần ngưỡng cho phép.
Đặc biệt, Hà Nội và TP. HCM là hai thành phố có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng nhất cả nước, chất lượng không khí bị suy giảm. Người dân sinh sống tại các khu vực này đã quá quen thuộc với tình trạng ô nhiễm không khí. Có nhiều thời điểm không khí bị bụi mịn bao phủ, gây hạn chế tầm nhìn. Ô nhiễm bụi gây ảnh hưởng sức khỏe, tạo tâm lý bất an cho con người.
Hệ lụy từ việc ô nhiễm môi trường
Nước ta đang hứng chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu, sự khắc nghiệt ngày càng gia tăng đối với Việt Nam khi tình trạng mưa bão trái mùa bất thường ngày càng thường xuyên hơn.
Nhiệt độ tăng cao trên toàn quốc, hạn hán kéo dài, nguồn nước ở các hệ thống sông lớn có xu hướng giảm mạnh, đặc biệt là tại sông Hồng và sông Mê Kông. Dòng chảy có xu hướng thấp đi nhưng lại chảy dữ dội hơn vào mùa lũ.
Việc ô nhiễm môi trường gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe của con người như:
Có thể thẩy vấn đề ô nhiễm môi trường gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe, cần có những giải pháp để bảo vệ môi trường và khắc phục tình trạng ô nhiễm.
Có thể thấy, thực trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay rất nghiêm trọng và đến từ nhiều nguyên nhân như sự gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa, ý thức của người dân về vấn đề môi trường chưa cao. Chính vì vậy, để cải thiện vấn đề này cần đẩy mạnh công tác giáo dục về môi trường cho toàn dân, giáo dục ý thức công dân, tăng cường chương trình giáo dục về bảo vệ môi trường cho các bé, đẩy mạnh việc xử phạt đối với tổ chức, cá nhân có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Có nhiều hành động để giúp bảo vệ môi trường, dưới đây là một số gợi ý cho bạn:
Như vậy có rất nhiều giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, tuy nhiên vấn đề chính vẫn là ở ý thức của mỗi người, mỗi chúng ta cần quan tâm đúng đắn hơn về việc môi trường sống ngày càng ô nhiễm.
Cảm ơn bạn đã dành thời gian theo dõi bài viết, mọi đóng góp về nội dung bạn có thể để lại bình luận bên dưới, Hợp Nhất sẵn sàng hỗ trợ bạn. Đừng quên theo dõi môi trường Hợp Nhất để cập nhật những thông tin mới.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển có tổng dân số khoảng 51 triệu người, mật độ dân số là 354 người/km2, cao hơn trung bình cả nước 1,9 lần, tốc độ gia tăng dân số khoảng 0,91%/năm. Các hoạt động của con người dẫn đến gia tăng chất thải, ảnh hưởng đến môi trường các khu vực ven biển, các vùng biển và hải đảo.
Chất thải ảnh hưởng đến môi trường biển
Đi kèm với sự phát triển đô thị ven biển là sự gia tăng dân số, chủ yếu là sự gia tăng cơ học, các đô thị biển cũng thu hút khách du lịch dẫn đến gia tăng các nguồn thải, gây áp lực lên hạ tầng đô thị, đặc biệt là hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý chất thải... Do đặc thù du lịch ở nước ta có chu kỳ mùa vụ (du lịch biển chủ yếu tập trung vào mùa Hè), lượng du khách tập trung đông vào một thời điểm khiến quá tải hệ thống thu gom rác thải, nước thải... gây ô nhiễm môi trường.
Hoạt động du lịch và dịch vụ biển không chỉ gây áp lực lên hạ tầng đô thị mà còn tác động lên không gian của các đô thị ven biển. Chỉ tính riêng lượng chất thải phát sinh từ các tàu du lịch trên vịnh Bắc Bộ đã ở mức trung bình 11,3 kg rác thải/tàu/ngày đêm. Hiện nay, qua khảo sát các tàu du lịch biển trên vịnh Bắc Bộ cho thấy, có tới 77% số tàu thải chất thải trực tiếp ra vịnh, chỉ có 20% số tàu mang chất thải vào bờ để xử lý.
Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa ở các khu vực ven biển và những tác động của con người đối với môi trường được thể hiện rõ qua thống kê lượng nước thải sinh hoạt tại các đô thị ven biển. Ước tính, tại các khu vực ven biển, lượng nước thải phát sinh sẽ vào khoảng 122-163 triệu m3/ngày, đây là một sức ép lớn đến môi trường biển.
Nước thải sinh hoạt có chứa hàm lượng các chất hữu cơ, hợp chất chứa nitơ, chất rắn lơ lửng, các thành phần vô cơ, vi sinh vật, vi trùng gây bệnh khác... nếu không được quản lý, kiểm soát sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước biển ven bờ.
Tại huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), theo ước tính, mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt phát sinh khoảng 8-10 tấn, chủ yếu là chất thải rắn sinh hoạt. Lượng rác thải thu gom trên huyện đảo này hiện mới đạt mức 6-8 tấn/ngày, trong đó phần lớn là rác thải sinh hoạt. Nguồn rác thải từ các hộ gia đình, chợ, khách sạn… được tập kết về bãi rác Voòng Xi, thuộc khu 4, thị trấn Cô Tô để chôn lấp. Tuy nhiên, số rác thải trên chủ yếu mới được thu gom tập trung ở các tuyến đường trung tâm thị trấn. Trong khi đó, một số khu vực như xã Thanh Lân, Đồng Tiến và các bãi biển có đông khách du lịch, việc thu gom rác thải lại rất hạn chế.
Tại huyện đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng), lượng chất thải chủ yếu tập trung từ hai nguồn là dân cư trên đảo và hoạt động du lịch. Trung bình mỗi ngày đảo Cát Bà phát sinh 58,6 m3 chất thải rắn các loại, thu gom được khoảng 40,74 m3 (chiếm 71%). Trong đó, rác thải phát sinh do hoạt động sinh hoạt, thương mại du lịch chiếm 80-85%; rác thải xây dựng, chế biến nuôi trồng thủy sản chiếm 10-13%, rác thải y tế khoảng 3-5%, các loại khác chiếm khoảng 0,7-1,2%.
Ngoài ra, một áp lực lớn khác đối với môi trường biển là tình trạng rác thải nhựa đại dương đang là vấn đề nóng trên toàn cầu, đặc biệt tại các quốc gia ven biển như Việt Nam. Chất thải nhựa đại dương trở thành mối nguy lớn cho môi trường biển bởi có số lượng lớn, đặc tính khó phân hủy trong môi trường biển và khả năng di chuyển xa. Tính trung bình, mỗi km2 mặt nước đại dương trên thế giới hiện nay chứa từ 13.000 đến 18.000 mẫu rác thải nhựa, 70% rác thải nhựa ở biển sẽ chìm xuống đáy biển và phá hoại các hoạt động sống ở đáy biển.
Sự gia tăng các nguồn thải từ lục địa, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đang đè nặng lên môi trường biển và hải đảo, cùng với sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng gia tăng, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, các sự cố môi trường biển để lại hậu quả nặng nề.
Theo thống kê của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), chất thải hữu cơ là rác thải từ hoạt động công nghiệp tác động đáng kể đến môi trường biển, làm suy giảm chất lượng thủy sản và một số loài sinh vật biển khác, làm nước biển nhiễm độc, đặc biệt tại các vịnh và khu vực cửa sông nước ta. Tình trạng ô nhiễm chất hữu cơ, dầu mỡ đang diễn ra ở mức khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, khu đông dân cư trải dài từ Bắc vào Nam, đặc biệt là vùng cửa sông tại các tỉnh, thành phố phía Bắc và dọc theo ven biển Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động khai thác khoáng sản biển, vận tải biển với quy mô khoảng 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm. Ngoài nước thải có chứa dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15.000 tấn dầu mỡ trôi nổi, trong đó 23-30% là chất thải rắn nguy hại chưa được xử lý.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản làm tăng đáng kể lượng chất thải, chủ yếu là từ phân bón và thức ăn. Với tổng diện tích nuôi tôm là hơn 600.000 ha trên cả nước, hằng năm, gần 3 triệu tấn chất thải rắn thải ra môi trường.
Bên cạnh đó, tài nguyên thiên nhiên biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững. Cỏ biển trên toàn vùng biển nước ta từ Quảng Ninh đến Hà Tiên đã mất khoảng 40-60%; rừng ngập mặn mất đến 70% và khoảng 11% các rạn san hô bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng phục hồi. Thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0-20 m, hiện chỉ còn khoảng trên 5.583 ha. Tại một số khu vực như đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng), thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), vùng biển tỉnh Quảng Nam…, thảm cỏ biển hầu như không có cơ hội để phục hồi tự nhiên do có quá nhiều tác động từ hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản… Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã mất 12% rạn san hô, 48% số rạn san hô khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở các vùng có đông dân cư như vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), các tỉnh, thành phố ven biển miền Trung và một số đảo khác.
Các hệ sinh thái biển đang bị khai thác thiếu tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Đến nay, Sách đỏ Việt Nam và danh mục đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng. Một kết quả nghiên cứu của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế khác cũng cho thấy, hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài khơi của Việt Nam đã bị khai thác. Trong đó, có đến 25% lượng cá bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt, sản lượng đánh bắt giảm đáng kể. Nhiều loài sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ năm 1989 đến nay, cả nước có hơn 100 vụ tràn dầu do tai nạn hàng hải, tràn ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu. Điển hình như sự cố tràn dầu tàu Formosa One xảy ra năm 2001 tại vịnh Gành Rái, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Do không tuân thủ chỉ dẫn của Cảng vụ Vũng Tàu, tàu Formosa One đã đâm vào tàu Petrolimex-01 làm tràn dầu khoảng 900 m3, tương đương 750 tấn dầu DO.
Năm 2019, tại khu vực sông Lòng Tàu, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh đã xảy ra sự cố tràn dầu của tàu Vietsun chở 150 tấn dầu bị chìm, 150 m3 dầu FO và 20 m3 dầu DO từ tàu này đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực rừng phòng hộ Cần Giờ và các khu vực nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, nhiều sự cố tràn dầu đã xảy ra như: sự cố tàu hàng 8.000 tấn chìm trên sông Lòng Tàu, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh vào ngày 18/10/2019; sự cố chìm tàu Nordama Sophia của Thái Lan trên biển Hà Tĩnh ngày 28/11/2019 gây ra hiện tượng dầu vón cục trôi dạt trên bờ biển thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh…
Ngoài các sự cố tràn dầu trên biển, tình trạng xả nước thải chưa qua xử lý xuống môi trường nước biển ven bờ đã gây hậu quả nghiêm. Điển hình là sự cố môi trường biển do Công ty Trách nhiệm hữu hạn gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra khiến hải sản chết bất thường tại một số tỉnh miền Trung, đặc biệt tại 4 tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế xảy ra vào đầu tháng 4/2016, để lại hậu quả rất nghiêm trọng trên nhiều phương diện, lĩnh vực, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo Việt Nam thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết, sự cố tràn dầu gây ảnh hướng xấu đến hệ sinh thái biển, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đàm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Khi cháy loang trên mặt nước, dầu tạo thành váng và bị biến đổi tính chất. Hàm lượng dầu trong nước tăng, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ô-xy giữa không khí và nước, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái.
Bài cuối: Cơ hội và giải pháp bảo vệ môi trường biển